
Các "điểm nghẽn" hiện nay được nhận định là: thủ tục hành chính; huy động nguồn lực cũng như việc kết nối và chia sẻ rủi ro trong nghiên cứu khoa học, qua đó tạo động lực mới trong phát triển nông nghiệp – ngành vốn đòi hỏi đổi mới sáng tạo không ngừng để đảm bảo tính cạnh tranh và phát triển bền vững.

Theo Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Nghị quyết số 57 có ý nghĩa rất quan trọng khi ngành Nông nghiệp và Môi trường đang đối mặt với hàng loạt thách thức lớn như: biến đổi khí hậu, tài nguyên suy giảm, áp lực tăng trưởng xanh, phát thải thấp cũng như những mô hình sản xuất nông nghiệp truyền thống, vốn dựa vào lao động thủ công, đầu vào vật tư lớn không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay… Nghị quyết được kỳ vọng tạo khung thể chế minh bạch, thông thoáng, phát huy tối đa nguồn lực xã hội cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và thương mại hóa sản phẩm. Trong đó, trọng tâm là hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đồng bộ, gắn kết chặt chẽ giữa Nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp và nhà nông.
Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Hồng Sơn nhận định: "Viện nghiên cứu công lập sẽ nghiên cứu ra những sản phẩm khó, cơ bản mà Viện nghiên cứu tư nhân không có năng lực làm và Viện nghiên cứu tư nhân sẽ tiếp quản các sản phẩm đó để phát triển phù hợp với định hướng và mục tiêu kinh doanh của mình để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa tiếp cận với thị trường và đưa vào sản xuất chứ không phải hợp tác theo kiểu là liên doanh để tổ chức sản xuất".

Đồng tình với quan điểm này, Giáo sư – Viện sỹ Trần Đình Long, Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam cho rằng, đột phá lớn nhất mà Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị mang lại là khơi thông sự liên kết giữa doanh nghiệp với các viện nghiên cứu. Việt Nam hiện có nhiều phòng thí nghiệm, Trung tâm nghiên cứu khoa học lớn nhưng lại chưa được khai thác hiệu quả. Nếu tận dụng tốt, doanh nghiệp sẽ có điều kiện làm chủ công nghệ chọn tạo giống, quy trình sản xuất và công nghệ sau thu hoạch – những yếu tố then chốt quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu.
Giáo sư – Viện sỹ Trần Đình Long khẳng định: "Liên kết giữa doanh nghiệp với các Viện nghiên cứu 2 bên đều cùng có lợi, đây là cơ chế hợp tác vì vậy cần có chính sách đột phá, Nghị quyết 57 đã giải quyết được vấn đề này. Tuy nhiên, còn cần chương trình hành động của Chính phủ, chỉ đạo của các bộ ngành đất đai, sản xuất nông nghiệp, nhất là đất đai là cơ sở vật chất."
Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Trọng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Trang trại Việt Nam, Nghị quyết số 57 tạo nên những đột phá khi trao quyền bình đẳng cho doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong việc nghiên cứu khoa học công nghệ. Các rủi ro trong nghiên cứu khiến nhiều doanh nghiệp e ngại trước đây nay được nhìn nhận một cách đúng đắn, với cơ chế chia sẻ rủi ro 50/50. Thành quả nghiên cứu cũng thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, tạo động lực mạnh mẽ để đầu tư lâu dài vào các công trình chất lượng, khắc phục tình trạng “nghiên cứu xong cất vào ngăn kéo” gây lãng phí nguồn lực xã hội.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Trọng cho biết: "Kết quả nghiên cứu khoa học của những doanh nghiệp cũng như các cá nhân đều có sở hữu như nhau tạo ra đột phá và như thế các doanh nghiệp có thể tiếp cận được những tiến bộ khoa học của thế giới cũng như công nghệ trong nước về giống, công nghệ, quy trình và mở ra hướng mới. Trên cơ sở này, các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân sẽ chủ động đặt hàng nghiên cứu, việc này sẽ giúp sản phẩm nghiên cứu ra có thể sử dụng và chuyển giao vào thực tiễn sản xuất ngay. Khắc phục tình trạng nhiều công trình, sản phẩm nghiên cứu khoa học sau khi nghiên cứu được để trong “ngăn bàn” “đắp chiếu” gây lãng phí."
Chia sẻ từ hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Thành Thực, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc công ty cổ phần công nghệ phần mềm Auto Agri cho biết, cơ chế ưu đãi còn chồng chéo, khó tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi, đặc biệt còn ít doanh nghiệp đủ tiềm lực dẫn dắt chuỗi giá trị đổi mới sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường. Những lĩnh vực như: công nghệ vi sinh – “gốc rễ” của nông nghiệp hữu cơ, bền vững hiện còn thiếu sự đầu tư, trong khi tiềm năng là rất lớn.
Bà Nguyễn Thị Thành Thực cho biết: "Công nghệ vi sinh rất quan trọng từ việc xử lý đất, tạo ra những giống mới, trong quá trình sinh trưởng của cây trồng trong bối cảnh chúng ta đã và đang sử dụng nhiều các loại thuốc hóa học, các loại thuốc bảo vệ thực vật. Mong muốn với cơ chế quản lý Nhà nước, những doanh nghiệp có kinh nghiệm thực tế sẽ được hợp tác nhiều hơn với các cơ quan chuyên ngành, đặc biệt là các Viện trường nghiên cứu để làm sao chúng ta xây dựng không chỉ về phát triển công nghệ mà còn phát triển cả nguồn nhân lực".

Nhấn mạnh tính “mở đường” nhưng còn thiếu lối đi cụ thể, ông Nguyễn Đỗ Dũng, Tổng Giám đốc công ty công nghệ nông nghiệp Enfarm cho biết, mặc dù được nhiều lần vinh danh trong và ngoài nước về sản phẩm ứng dụng khoa học công nghệ cũng như dự án trí tuệ nhân tạo, tuy nhiên việc tiếp cận nguồn vốn phát triển khoa học công nghệ đối với doanh nghiệp hiện vẫn còn khó khăn.
Ông Nguyễn Đỗ Dũng nhận định: "Mong muốn Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống với các văn bản hướng dẫn triển khai của các cấp để “mở khóa” sử dụng ngân sách Nhà nước và ngân sách tại các Tập đoàn của Nhà nước trong việc ứng dụng khoa học công nghệ, để thực sự đưa khoa học công nghệ vào cuộc sống."
Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030, định hướng đến 2045 được coi là “kim chỉ nam” cho mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có năng lực đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu ASEAN. Để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia nói chung, ngành Nông nghiệp và Môi trường nói riêng cần có cách tiếp cận linh hoạt, sự chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ giữa Trung ương và địa phương và sự vào cuộc mạnh mẽ của doanh nghiệp và nông dân.