Nhiều địa phương khó xử lý nước sông ô nhiễm vì phải hứng nước thải từ thượng nguồn

Văn Ngân/VOV.VN | 12/07/2025, 08:19

VOVLIVE - Nhiều địa phương ở vùng hạ lưu nên phải tiếp nhận toàn bộ nước thải vùng thượng nguồn, và hoạt động xử lý rất thụ động. Vì vậy cần phải liên kết vùng trong xử lý nước thải tại các dòng sông.

Nhiều dòng sông ô nhiễm ở mức độ báo động

Tại tọa đàm "Giải pháp hồi sinh những dòng sông chết", ông Nguyễn Hồng Hiếu - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước cho biết, Việt Nam hiện có khoảng 3.450 con sông, phân bố trên ba lưu vực sông lớn và các khu vực sông ven biển. Dưới áp lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhiều dòng sông đang bị ô nhiễm ở các mức độ khác nhau, đặc biệt là tại khu vực trung và hạ lưu - nơi có mật độ dân cư đông và nhiều hoạt động sản xuất, đô thị.

Điển hình như sông Cầu đoạn qua Thái Nguyên, sông Sài Gòn qua TP.HCM... kênh rạch nội đô tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM hiện nay không còn đúng nghĩa là dòng sông tự nhiên mà trở thành nơi dẫn nước thải. Một số hệ thống sông liên vùng, liên huyện, liên tỉnh như Bắc Hưng Hải, Nhuệ - Đáy qua Hà Nội, Ninh Bình… cũng đang gặp vấn đề nghiêm trọng. Bên cạnh đó, các ao hồ trong khu vực đô thị vốn trước đây có vai trò tạo cảnh quan và điều tiết sinh thái – nay cũng trở thành nơi chứa chất thải, có mức độ ô nhiễm đáng báo động.

Nhiều hệ thống sông ngòi ở nước ta ô nhiễm đến mức trầm trọng, mất đi chức năng của một dòng sông mà chỉ như kênh chứa nước thải như hệ thống các sông nội đô Hà Nội, hệ thống sông Cầu, hệ thống sông Nhuệ - Đáy hay hệ thống kênh thủy lợi Bắc Hưng Hải. Ngày 24/1/2025, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Chỉ thị số 2/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp cấp bách tăng cường công tác kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước một số lưu vực sông. Chỉ thị đã giao cho các bộ, ngành, địa phương nhiệm vụ cụ thể, cấp bách để giải quyết vấn đề ô nhiễm các hệ thống sông.

Nguyên nhân được ông Nguyễn Hồng Hiếu - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước chỉ ra đó là tình trạng xử lý nước thải sinh hoạt đô thị hiện nay. Hiện lượng nước thải sinh hoạt sơ bộ lên tới hơn 9 triệu m³/ngày. Trong khi đó, hệ thống xử lý nước thải đô thị hiện có khoảng 80 trạm, với tổng công suất thiết kế chỉ khoảng 1,5 triệu m³/ngày. Thực tế mới xử lý được khoảng 17% lượng nước thải.

“Tiếp đó là tình trạng nước thải từ các khu công nghiệp, làng nghề. Hiện có gần 300 khu công nghiệp trên toàn quốc, trong đó, khoảng hơn 270 khu đang được đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung. Phần còn lại, chủ yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ vẫn xử lý nước thải phân tán tại chỗ, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm cao”, ông Nguyễn Hồng Hiếu chia sẻ.

Ngoài ra, việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi… diễn ra thiếu kiểm soát, dẫn đến tồn dư hóa chất chảy ra môi trường nước. Ý thức của con người chưa cao khi đổ chất thải rắn bừa bãi trên hệ thống kênh, sông, ao, hồ làm gia tăng ô nhiễm nghiêm trọng. Hoạt động khai thác cát, sỏi quá mức và các hoạt động khác nên nhiều dòng sông hiện bị suy giảm nghiêm trọng về lưu lượng nước, dẫn đến việc dòng chảy bị gián đoạn hoặc không còn. Khi mùa khô kéo dài, lượng mưa giảm hoặc mưa lớn gây ngập úng kéo dài cũng làm cho mức độ ô nhiễm tích tụ và gia tăng.

Các sông ở Ninh Bình hứng chịu toàn bộ nước thải vùng thượng nguồn

Tại buổi tọa đàm ông Lê Hùng Thắng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Ninh Bình cho biết, Ninh Bình là vùng hạ lưu, các dòng sông chảy qua địa phương đều đang bị ô nhiễm, đặc biệt là dòng sông Nhuệ. Cụ thể, chỉ số COD, BOD (chỉ số xử lý nước thải) đều vượt ngưỡng cho phép, nhất là vào mùa khô hạn. Điều này trực tiếp ảnh hưởng tới nguồn nước mặt sinh hoạt và hệ sinh thái trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

“Nguyên nhân chính dẫn đến việc ô nhiễm nghiêm trọng các dòng sông của tỉnh Ninh Bình là vùng hạ lưu nên địa phương tiếp nhận toàn bộ nước thải vùng thượng nguồn, và hoạt động xử lý rất thụ động. Bên cạnh đó, còn do nguồn nước thải tại các vùng dân cư chưa thể thu gom. Các làng nghề đa số là hoạt động tự phát cho nên để kiểm soát nước thải làng nghề rất khó. Đặc biệt là các cụm công nghiệp hình thành trước 2005 hệ thống xử lý nước thải vẫn chưa được đầu tư đầy đủ cũng là nguồn cơn gây phát sinh ô nhiễm”, ông Lê Hùng Thắng cho hay.

Theo Phó Giám đốc sở Nông nghiệp và Môi trường Ninh Bình, trong những năm qua, chính quyền đã có nhiều giải pháp để nỗ lực giải quyết tình trạng ô nhiễm các dòng sông. Tỉnh Ninh Bình luôn tích cực trong công tác tuyên truyền nhận thức bảo vệ môi trường của người dân, đồng thời tăng dày tần suất quan trắc để kiểm soát chất lượng nguồn nước. Đồng thời, nghiêm túc kiểm soát hồ sơ doanh nghiệp để nâng cao vai trò, giám sát thực hiện bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trong hoạt động xử lí nước thải kết hợp với rà soát quy hoạch chặt chẽ nhằm đảm bảo hoạt động quản lý các dự án.

“Tuy nhiên, như đã nói ở trên, vì là tỉnh cuối nguồn nên Ninh Bình thụ động hoàn toàn trong kiểm soát nguồn thải. Bên cạnh đó, xử lý nước thải cần lượng đầu tư rất lớn nên khó xử lý căn cơ. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng gặp thách thức lớn về việc chia tách xử lý nước thải làng nghề với nước thải sinh hoạt. Về vấn đề liên kết vùng trong hoạt động xử lý nước thải, trước đây các địa phương đã hình thành Ủy ban sông Nhuệ - Đáy để có các giải pháp căn cơ, cơ chế giải quyết triệt để, tuy nhiên, vẫn chưa tới được đích. Sau khi hình thành tỉnh mới, đến nay, uỷ ban này vẫn chưa được tái lập lại. Tỉnh Ninh Bình kiến nghị tái thành lập Uỷ ban liên vùng các lưu vực sông để liên kết các vùng, đảm bảo tính thông suốt giữa thượng nguồn với hạ nguồn, từ đó thông tin mới kịp thời để giải quyết và xử lý các vấn đề tồn đọng”, ông Lê Hùng Thắng nhấn mạnh.

Phải liên kết vùng trong xử lý nước thải tại các dòng sông

Trao đổi tại buổi tọa đàm, GS.TS Trần Đình Hòa, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cho rằng, thực trạng suy thoái cạn kiệt nguồn nước đang rất trầm trọng, việc phục hồi không thể chậm trễ hơn nữa.

Bản chất việc suy thoái, cạn kiệt nguồn nước của các địa phương đó là vấn đề tổng thể mang tính toàn cầu về an ninh nguồn nước. Đánh giá về các thách thức mà các tỉnh thành phải đối mặt, ông Hoà đã chỉ ra 3 nhóm thách thức chính trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước.

Trong đó, nguyên nhân trọng yếu tới từ sự phát triển nội tại trong các đô thị. Sau công cuộc đổi mới năm 1986, dân cư, khu đô thị mở rộng, nông thôn đô thị hoá, áp lực gia tăng dân số, sự phát triển kinh tế xã hội tạo ra áp lực rất lớn về việc sử dụng nguồn nước và xử lý nước thải. Đây là thách thức mà cả nước đang gặp phải, đẩy nhu cầu sử dụng nước tăng cao.

Bên cạnh đó, Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn trong việc kiểm soát nguồn nước. Cụ thể, tổng nguồn nước Việt Nam là 830 tỉ m3 nước/ năm nhưng lượng nước này phần lớn lại đến từ nước ngoài. Riêng tại đồng bằng sông Hồng có lượng nước khoảng 140 tỉ m3/năm nhưng đã có tới 40% lượng nước từ nước ngoài.

Ngoài ra, chúng ta phải đối mặt với thực trạng biến đổi khí hậu rất trầm trọng hơn khi mùa mưa đến sớm và ít hơn. “Các vấn đề trên đều mang tính toàn cầu, để giải quyết vấn đề về ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt không phải của riêng địa phương nào. Bởi vậy, các địa phương phải bắt tay hợp tác giải quyết, không chỉ tại các địa phương có dòng sông chảy qua mà tất cả các địa phương liên quan cần liên kết để có giải pháp tổng thể. Việc liên kết vùng không chỉ riêng về vấn đề thuỷ lợi, ứng phó thiên tai mà phải quyết liệt xử lý nước thải liên quan tới cả hệ thống dòng sông”, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cho biết.

Ngoài ra, theo ông Hoà, các công trình hiện nay đều được định hướng sử dụng với đa mục tiêu, không đơn thuần là cấp thoát nước, tưới tiêu mà nó được tận dụng phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội nói chung.

Đẩy mạnh liên kết vùng

Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Nguyễn Hồng Hiếu đề xuất, các tỉnh, thành phố những dòng sông cần xây dựng và ban hành mô hình tổ chức lưu vực sông, từng bước thực hiện thí điểm để phục hồi các nguồn nước; đầu tư vào hệ thống thu gom, xử lý rác thải, nước thải triệt để; đồng thời xây dựng các công trình điều tiết, nhằm bảo đảm dòng chảy, đặc biệt là tăng cường lưu lượng nước cho các sông nội đô… Phấn đấu từ 5 đến 10 năm tới, bảo đảm tỷ lệ nước thải được xử lý đạt hơn 80%. Kiểm soát nghiêm ngặt nước thải từ khu công nghiệp, làng nghề, khu dân cư, nhất là các cơ sở chưa được đầu tư hệ thống xử lý đạt chuẩn. Các dự án như Nhà máy Yên Xá cần được thúc đẩy nhanh, vận hành đồng bộ.

Một số chuyên gia cho rằng, các địa phương phải xây dựng và thực thi cơ chế liên kết vùng trong quản lý môi trường lưu vực sông. Không thể để các địa phương “mạnh ai nấy làm”, thượng nguồn xả thì hạ nguồn gánh. Việc tái lập các ủy ban lưu vực sông liên tỉnh như Nhuệ - Đáy là giải pháp then chốt, giúp thống nhất hành động, chia sẻ thông tin, giải quyết triệt để nguồn ô nhiễm theo chuỗi.

Ngoài ra, cần tăng cường giáo dục môi trường, nâng cao ý thức cộng đồng - từ học sinh, sinh viên đến doanh nghiệp, người dân. Lan tỏa mạnh mẽ ý thức tốt, hành động đúng trong bảo vệ môi trường sẽ tạo nền tảng xã hội đồng thuận trong công cuộc làm sạch và hồi sinh các dòng sông. Đặc biệt, thành phố Hà Nội muốn phát triển xanh, sạch, đáng sống, thì việc khôi phục lại chức năng sinh thái, cảnh quan và giá trị văn hóa của các dòng sông nội đô lịch sử là nhiệm vụ bắt buộc.

Sự hồi sinh của những dòng sông không chỉ đòi hỏi các dự án kỹ thuật, mà quan trọng hơn cả là sự hồi sinh trong tư duy phát triển, trong cách nhìn về môi trường và lợi ích cộng đồng. Đây là lúc Hà Nội cần thể hiện rõ quyết tâm chính trị, để biến “những dòng sông chết” trở lại thành dòng chảy của sự sống, không chỉ cho hôm nay mà cho cả thế hệ mai sau.

Theo Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, trong khuôn khổ Kế hoạch số 746 của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhằm triển khai Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp cấp bách tăng cường kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước tại một số lưu vực sông, ông Nguyễn Hồng Hiếu - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng các nhóm giải pháp chủ yếu. Cụ thể, như rà soát, công bố và tổ chức kiểm tra việc xả thải của các tổ chức, cá nhân; đầu tư, nâng cấp hệ thống quan trắc chất lượng nước trên các lưu vực sông; kiểm soát các hoạt động nông nghiệp và công trình thủy lợi có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước…

Theo kế hoạch, Đề án thí điểm phục hồi các dòng sông sẽ được hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ trước tháng 1/2026. Đây là một chương trình tổng thể, hướng tới phục hồi nguồn nước một cách bền vững, thông qua rà soát và đánh giá lại tình hình sử dụng nước, thu gom và xử lý triệt để nước thải, đồng thời đề xuất các giải pháp công trình và phi công trình phù hợp với điều kiện từng địa phương.

Ngoài ra, ông Hiếu cũng nêu một số nhóm giải pháp của đề án như rà soát, đánh giá và điều chỉnh quy trình vận hành của hệ thống công trình thủy lợi hiện có - vốn trước đây được xây dựng theo hướng đơn mục tiêu, nay cần phục vụ đa mục tiêu; xây dựng và ban hành mô hình tổ chức lưu vực sông, từng bước thực hiện thí điểm để phục hồi các nguồn nước; đầu tư vào hệ thống thu gom, xử lý rác thải, nước thải triệt để, đồng thời xây dựng các công trình điều tiết nhằm đảm bảo dòng chảy, đặc biệt là tăng cường lưu lượng nước cho các sông nội đô…

Để thực hiện thành công Đề án, ông Hiếu cho rằng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành. Cụ thể, Bộ Nông nghiệp và Môi trường có trách nhiệm kiểm soát nguồn thải, giám sát hoạt động sử dụng tài nguyên nước và theo dõi diễn biến chất lượng nước. Bộ Xây dựng cần rà soát, điều chỉnh cơ chế chính sách, đẩy mạnh đầu tư vào hệ thống thu gom và xử lý nước thải theo hướng xã hội hóa. Bộ Công Thương đóng vai trò quản lý hoạt động sản xuất công nghiệp và đầu tư hạ tầng bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp. Bộ Tài chính cần chủ động tìm kiếm, huy động các nguồn lực đầu tư từ xã hội để hỗ trợ cho các địa phương. Bộ Công an đảm nhiệm điều tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến xả thải và gây ô nhiễm.

Bên cạnh sự vào cuộc của các cơ quan quản lý nhà nước, ông Hiếu đánh giá cao vai trò và sự tham gia của khối doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động đầu tư hệ thống công nghệ tiết kiệm nước, thiết bị xử lý nước thải thân thiện với môi trường và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật. Đề án cũng khuyến khích doanh nghiệp tích cực tham gia vào các hoạt động như nạo vét, cải tạo dòng chảy, góp phần cùng Nhà nước bảo vệ và phục hồi các dòng sông.

Với sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt của các Bộ, các cấp, các ngành, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, ông Hiếu tin rằng, hoàn toàn có thể từng bước làm sống lại những dòng sông đang bị tổn thương nghiêm trọng.

Bài liên quan
Hà Nội triển khai nhiều biện pháp để giải cứu 4 con sông ô nhiễm
VOVLIVE - UBND Thành phố vừa ban hành kế hoạch triển khai các giải pháp cấp bách tăng cường công tác kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước tại sông Nhuệ, Đáy, sông Ngũ Huyện Khê, sông Cầu Bây và hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải trên địa bàn thành phố Hà Nội.

(0) Bình luận
Nổi bật VOVLIVE
"Giám sát thực thi quyền lực ở cấp xã, kiên quyết không để xảy ra tham nhũng"
Ông Phan Đình Trạc lưu ý ngành Nội chính Đảng tập trung tham mưu Ban Chỉ đạo cấp tỉnh chỉ đạo tăng cường kiểm soát, kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực thi quyền lực ở cấp xã, kiên quyết không để xảy ra tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Mới nhất
- xem bóng đá trực tuyến - 90phut - cakhia - mitom - xôi lạc tv - xoilactv - bóng đá trực tiếp